Trang chủ Chi pháiCôi Trì - Trung Đồng Thơ văn Ninh Tốn (寧遜 1744 – 1795)

Thơ văn Ninh Tốn (寧遜 1744 – 1795)

đăng bởi Ninh Quang Thăng
0 nhận xét

Bài 16
Tử Trầm sơn tức cảnh

Tây nam bách lý giai bình điền, nhất điều sơn dung xuất sổ phong tụ trĩ, sơn bất thậm cao nhi loan uyển vu hồi, thanh lệ khả ái, sơn chi lộc hành cung tại yên. Cung lâm đại hồ, hồ tam diện giai sơn. Hồ chi đông tắc cổ tự quy nhiên, tự bối sơn, sơn diên an nhất tiểu tự, tong hạ tự thủ kinh phan tê nhi thượng, địa tuy trích ải nhi tứ vọng khoan khoát khả trợ ngâm hứng. Sơn cước tùy xứ hữu động, thủy tong động trung trích trích tác thanh, du nhân danh vi cầm tuyền. Cổ thụ giao gia, cầm điểu minh tường, xuân hoa, thu nguyệt, hạ lien, đông tùng, tứ thời mỹ thắng, vi nhất phương thắng lãm.

Tầm thường thôn ổ xuất lâm tuyền
Cầm thụ phùng nghinh cảnh sắc nghiên
Hoàn lĩnh giai điền, điền chủng cốc
Bàng cung thị thủy, thủy tài lien
Tự tiền nguyệt chiếu hư vô địa
Động lý vân tàng hỗn độn thiên
Thắng thưởng trường cung nhân trí lạc
Nhất du thời tứ thái bình diên

Dịch nghĩa
Tức cảnh núi Tử Trầm

Phía tây nam trăm dặm đều là ruộng phẳng, một dãy núi nổi lên vài ngọn, núi cũng không cao lắm, nhưng vòng vèo xinh đẹp đáng yêu, chân núi có dựng hành cung. Cung nhìn xuống hồ lớn, ba mặt hồ đều có núi. Phía đông của hồ có một ngôi chùa cổ, sừng sững cao dựa vào núi.  Trên đỉnh núi có ngôi chùa nhỏ, từ ngôi chùa ở bên dưới leo lên đất dù hẹp nhưng trông ra bốn phía thì rộng mênh mông, có thể giúp cho hứng ngâm thơ. Chân núi chỗ nào cũng có động, nước từ trong động chảy xuống kêu róc rách. Người đi chơi đặt tên là suối Đàn Cầm. Cổ thụ xum xuê, chim choc bay liệng kêu hót, hoa mùa xuân, sen mùa hạ, trăng mùa thu, thông mùa đông, bốn mùa tươi đẹp, là một thắng cảnh của một phương

Trong thôn xóm tầm thường xuất hiện cảnh suối rừng
Chim choc, cây cối đón rước, cảnh sắc đẹp tươi
Quanh núi đều là ruộng, ruộng cấy lúa
Kề bên cung điện là nước, nước trồng sen
Trước chùa, trăng soi trên mảnh đất hư vô
Trong động, mây giấu kín bầu trời hỗn độn
Cảnh đẹp mãi mãi dâng cho kẻ trí, người nhân
Mỗi lần đến chơi là một lần trải chiếu thanh bình

Dịch thơ
(Khương Hữu Dụng)
Tức cảnh núi Tử Trầm

Giữa lòng thôn xóm hiện lâm tuyền
Chim đón hoa chào cảnh tự nhiên
Quanh núi nhiều đồng, đồng cấy lúa
Bên cung là nước, nước trồng sen
Mây lồng hỗn độn trời trong động
Trăng rọi hư vô đất cử thiền
Vui kẻ trí, nhàn bày cảnh đẹp
Mỗi lần chơi, trải chiếu bình yên

  _____________________________________________________

Bài 17
Vọng Tản Viên sơn

Đột ngột sanh không bách thượng huyền
Bàn huân nhận đắc tản hình viên
Thiên lân ngọ kiểu viêm chưng khổ
Vị bá kiều âm tế bát diên

Dịch nghĩa
Trông núi Tản Viên

Chót vót dựng thẳng lên, sát vòm trời xanh đen
Xum xuê nhận được hình tròn xoe của chiếc tán
Trời thương nơi hẻo lánh khổ vì oi bức
Vì thế mà đem bóng râm cao cả che cho tám cõi của nơi này

Dịch thơ
(Thái Giang)
Trông núi Tản Viên

Chót vót từng không, sát tận trời
Tròn xoe tán rộng đứng chơi vơi
Oi nồng quạnh vắng, trời thương hại
Bóng rợp trùm che, tám cõi đời

 _____________________________________________________

Bài 18
Lưu đề Tản Viên thần từ

Sơn anh thủy tú, hợp thành đan
Vạn cổ tinh linh trú thế gian
Tiên tức thăng đằng vân hữu lộ
Thần ư trấn áp, thủy vô lan
Hiển tang diệu hóa, tham cao hậu
Tướng hưu huyền công tại tế bần
Bồi hỗ, hạnh kim chiêm vọng nhĩ
Vu chương hoàn tự quĩ giang san

Dịch nghĩa
Lưu đề Đền thờ thần núi Tản Viên

Núi song tươi tốt hợp lại thành cảnh đẹp
Tinh khí thiêng muôn thuở chứa trong cõi đời
Tiên bay lên vì mây có đường
Thần đã trấn áp nên nước không dâng sóng
Đức hóa hiển hiện kỳ diệu sánh với trời đất
Công huyền vi giúp đỡ trong khoảng bao la
Mừng nay được đi hộ giá trông thấy gần gũi
Lời thơ luống những thẹn với non sông

Dịch thơ
(Nguyễn Văn Lãng)
Lưu đề Đền thờ thần núi Tản Viên

Nước biếc, non xanh, cảnh đẹp tươi
Tinh linh muôn thuở chứa trên đời
Đường mây sẵn lối, tiên bay vút
Sóng nước không dâng, thánh trần rồi
Đức sáng diệu kỳ so rộng thẳm
Công tài giúp dập sánh xa vời
Theo hầu, may được xem gần gũi
Thẹn với non sông viết mấy lời

 _____________________________________________________

Bài 19
Đề Sài Sơn Từ chân nhân viên tịch động khẩu chi thạch bích

 Tiền đại tang văn hữu chi nhân
Tư sơn trác tích dưỡng thiên chân
Cơ duyên tẩy tịnh tiền sinh lụy
Phú quý trừ lưu hậu kiếp than
Tuệ tính bất ưng tham sắc giới
Từ tâm nguyên thị hứa sinh dân
Bất nhiên cực lạc càn khôn đại
Liên tọa ninh năng hoán tử thần

 Dịch nghĩa
Đề vách đá ở cửa đồng Sài Sơn nơi vị chân nhân họ Từ tịch

 Đời trước từng nghe nói có bậc chí nhân
Cắm gậy tích ở núi này để nuôi dưỡng thiên chân
Cơ duyên đã tẩy sạch cái lụy của cuộc sống trước
Phú quý chứa lại để cho thân kiếp sau
Có tính tuệ nên không tham sắc giới
Cái tâm từ vốn là để hứa cho sinh dân
Nếu chốn cực lạc không lớn như trời đất
Thì đâu có thể đem cả ngôi vua đổi lấy tòa sen

Dịch thơ
(Khương Hữu Dụng)
Đề vách đá ở cửa đồng Sài Sơn nơi vị chân nhân họ Từ tịch

Từng nghe đời trước bậc cao minh
Cắm gậy non đây dưỡng tính tình
Phú quý dành cho thân hậu kiếp
Nhân duyên rửa sạch lụy tiền sinh
Từ bi đã hứa sinh linh đó
Sáng suốt không tham sắc giới đành
Cực lạc chẳng như trời đất rộng
Tòa sen đâu thể đổi cung đình

 _____________________________________________________

Bài 20
Sài Sơn

An Thạch hữu Sài Sơn
Mạch tong Tản Viên khởi
Từ lâu hạ điện lai
Oanh vu kỷ thập lý
Điệt đổn bình điền trung
Ngật nhiên cô phong trĩ
Sơn điền kính bán bình
Thản thản như thiên thị
Bất tri hà triều đại
Ban tài cấu phật tự
Quyết sơ Từ chân nhân
Chính tính ái sơn thủy
Tăng khoa trúng Bạch Liên
Bí quyết học kim xỉ
Đạo quả kỷ viên thành
Trác tích phong đầu địa
Đoan cư thạch động trung
Trì tụng La Ni tự
Công mãn tác đầu đà
Huề cùng phỏng Kiều Trí
Hựu chi Pháp Vân tăng
Vấn đáp cùng áo chỉ
Tứ đại tác ốc lư
Lục thông vi diên kỷ
Thuyết pháp nhiễu hồ xà
Phi phù dịch thần quỷ
Đại khánh duy tam niên
Nhân Tông phạp quyết tự
Chân nhân ngộ túc nhân
Vị thoát trần thế lụy
Nãi thác Sùng Hiền hầu
Hóa tác phu nhân tử
Hậu than thị Thần Tông
Tự Lý vi Hoàng đế
Phu nhân lâm đản thời
Chân nhân tọa nham lý
Cảm khái luân hồi kiếp
Thán tức gian nan vị
Y bát thụ kỳ đồ
Xuất hình như thoát lý
Di thức nhiễm nhược sinh
Hương nhân thần kỳ sự
Phụng thuế tác chân dung
Tuế thời cung tế tự
Cổ Pháp bất Đông A
Da du sổ bách tuế
Hồ mạt Ngô nhân lai
Hỏa phần thuế nãi hủy
Huân cảo dương dương tồn
Linh Thông vĩnh bất thế
Quốc triều Quang Thuận trung
Diệc hữu phi thạch thụy
Hiến miếu ứng triệu sinh
Bích thượng thạch hữu chi
Như hà liên  đài bạc
Khước mộ phong thần quý
Khởi duyên Bồ Tát tâm
Bất nhẫn cơ hàn thị
Xuất tám nhậm cũng tuy
Vi dân hồi chỉ trị
Huyền khiếu  bất khả khuy
Tưởng tượng đồ sá dị
Phù sinh sinh hạnh phùng thì
Bồi hỗ tần đáo thứ
Hồ thủy tự quyên quyên
Sắc sơn y nhiên thúy
Tức cảnh hoài tiên tông
Đăng trung mệnh bút ký

Dịch nghĩa
Sài Sơn

An Thạch có núi Sài Sơn
Mạch từ núi Tản Viên
Từ giã lầu xuống đến điện
Vòng vèo mấy mươi dặm
Mạch núi liên miên trong khoảng đất bằng
Một ngọn núi sừng sững cao
Đường lên đỉnh núi nửa bằng phẳng
Phẳng phiu như chợ trời
Không biết từ triều đại nào
Khuân vật liệu đến dựng chùa phật
Xưa kia vị chân nhân họ Từ
Tính tình yêu nước non
Người đậu khoa Bạch Liên trong khoa thi Phật giáo
Bí quyết học ở Kim Xỉ
Đạo quả đã viên mãn
Cắm gậy tích ở đỉnh núi
Ngồi ngay ngắt trong hang đá
Trì tụng kinh Đà la ni
Công đức tròng đầy làm chức đầu đà
Cắp gậy tích đi thăm Kiều Trí
Lại đến nhà sư ở chùa Pháp vân
Vấn đaáp thấu suốt ý chỉ sâu sắc của Phật
Lấy bốn cái lớn làm nhà ở
Lấy sáu cái thần thông làm chiếc ghế
Thuyết pháp làm rối loạn cọp rắn
Vẽ bùa sai khiến cả quỷ thần
Niên hiệu Đại Khánh năm thứ ba
Lý Nhân Tông không có con nối dòng
Chân nhân hiểu nhân duyên kiếp trước
Chưa thoát được lụy trần thế
Bèn thác sinh vào cửa Sùng Hiền hầu
Hóa than làm con của phu nhân
Hậu than ấy là vua Thần Tông
Nối nghiệp nhà Lý làm Hoàng đế
Lúc phu nhân trở dạ đẻ
Chân nhân còn ngồi trong động
Cảm khái ngậm ngùi về kiếp luân hồi
Thở than về ngôi vua khó nhọc
Y bát trao lại cho môn đồ
Thoát hình như người thoát cái dép
Xác để lại nghiễm nhiên như còn sống
Người làng coi việc này rất thiêng
Thờ xác ấy làm chân dung
Hàng năm dâng cúng tế
Từ hương Cổ Pháp đến nhà Đông A
Dằng dặc mấy tram năm
Cuối đời Hồ, người Ngô đến
Lửa thiêu đốt xác bị hủy hoại
Khói hương nghi ngút khí anh linh vẫn còn
Anh linh mãi mãi không mất
Năm Quang Thuận của triều ta
Cũng có điềm đà bay đến
Vua Hiến Tông ứng điềm mà giáng sinh
Trên vách đá có ghi lại chuyện này
Tại sao cái vui ở tòa sen
Còn mến tiếc cái sang trọng của ngôi vua
Có phải vì tấm lòng Bồ Tát
Không nỡ trông dân đói rét
Ra giúp đời làm bốn phương yên ổn
Vì dân đem lại nền trị bình cao cả
Lẽ huyền diệu không thể nhìn thấy được
Tưởng tượng chỉ những ngạc nhiên
Kiếp phù sinh may gặp thời Bồi tùng hộ giá luôn luôn đến đây
Nước hồ vẫn trong leo lẻo
Sắc núi vẫn xanh dờn dờn
Tức cảnh nhớ dấu vết tiên
Lên thuyền cầm bút ghi lại

Dịch thơ
(Hoàng Tạo)
Sài Sơn

An Thạch có núi Thày
Mạch đi từ non Tản
Từ trên lầu cao xuống dưới đền
Quanh co đi hàng mấy mươi dặm
Núi chạy liên miên qua đồng bằng
Đột nhiên một ngọn đứng thẳng sững
Nhìn lên đỉnh núi chi thênh thênh
Nhưng thênh thang tựa chợ trời phẳng
Chẳng hay từ thuở đời vua nào?
Đã chở vật liệu xây cảnh Phật
Trước hết chân nhân người họ Từ
Đối cảnh nước non lòng mến nhất
Đạo Thiền người đậu khoa Bạch Liên
Phép màu người học nước Kim Xỉ
Đến khi đạo quả đã vê tròn
Đầu non về đây dựng gạy, nghỉ
Nhà người ở là hang đá sâu
Kinh người tụng là Đà la ni
Vẹn tuyền công quả thành vị sư
Chống gậy thăm hỏi đức Kiều Trí
Sau đó đi tìm ngài Pháp Vân
Đàn nói thấu xuất nghĩa thâm thúy
Bốn cái lớn ấy là cửa nhà
Sáu phép thần thông là giường ghế
Người thuyết pháp hổ, rắn rộn ràng
Người tung bùa quỷ thần khiếp nể
Niên hiệu Đại Khánh năm thứ ba
Vua Nhân Tông thiếu người kế vị
Chân nhân vốn giác ngộ kiếp sau
Nhưng còn chưa thoát vòng thế lụy
Bèn mượn cửa nhà Sùng Hiền hầu
Đầu thai lấy phu nhân làm mẹ
Con quý ấy sau là Thần Tông
Người nối ngai vàng dòng họ Lý
Mãi khi phu nhân đã lâm bồn
Chân nhân vẫn ngồi trong hang đá
Còn đang ngao ngán kiếp luân hồi
Than thở khó khăn vì địa vị
Áo, bát trao lại cho học trò
Lột xác như trút dép cũ kỹ
Xác tươi không khác lúc sinh bình
Người làng thấy việc kinh thần dị
Bèn đem xác đắp thành tượng thờ
Tuần tiết quanh năm chăm tế lễ
Trải từ Cổ Pháp đến Đông A
Dằng dặc trải qua mấy thế kỷ
Cuối Hồ, giặc Ngô kéo nhau sang
Đốt phá tan tành, tượng cũng hủy
Chỉ duy hương khói lộng lộng còn
Linh ứng cảm thông vẫn truyền kế
Giữa đời Quang Thuận bản triều ta
Về điềm đá bay cũng thấy có
Ứng điềm, Hiến Tông ngài giáng sinh
Vách đá, lời ghi còn nói rõ
Tại sao đài sen vui xiết bao
Mà cảnh đền phong vẫn tha thiết
Phải chăng vì tấm lòng từ bi
Chẳng nỡ nhìn dân sống đói rét
Mới ra giúp trời bốn phương
Đem lại cho dân đời sống đẹp
Cơ huyền hồ dễ nhìn thấy đâu
Tưởng tượng chỉ thấy những điều lạ
Nghĩ mình sống nổi mà gặp may
Chốn ấy mấy lần theo hỗ giá
Nước hồ mặt sóng vẫn rung rinh
Sườn núi màu đá vẫn xanh biếc
Dấu tiên thấy cảnh mà say lòng
Trên thuyền liền sai lấy bút viết

Tin tức liên quan

Trở lại bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

logo-honinh-trang

Website honinh.com giới thiệu những giá trị lịch sử – văn hóa – xã hội giàu tính nhân văn, góp phần tôn vinh, chia sẻ những giá trị cao đẹp trong cộng đồng  dòng họ Ninh và những người quan tâm, đặc biệt là giới trẻ.

DANH MỤC

 All Right Reserved. Designed and Developed by honinh.com