Trang chủ Chi pháiCôi Trì - Trung Đồng Thơ văn Ninh Tốn (寧遜 1744 – 1795)

Thơ văn Ninh Tốn (寧遜 1744 – 1795)

đăng bởi Ninh Quang Thăng
0 nhận xét

Bài 11
Bát Tràng

Đào chú phi quan tạo hóa quân
Thể viên đố nguyệt, hạo khí ngân
Chu viên hữu tửu bằng châm chước
Hán trợ vô trù nhậm xử phân
Thổ quỷ túc chiêu Đường khắc kiệm?
Hà tân khả phát Thuấn thăng văn
Tranh tranh tự thị vô hà khí
An xứ hoàn tu thẩm trí nhân

Dịch nghĩa
Bát Tràng

Khuôn nặn không liên quan đến bàn xoay tạo hóa
Hình tròn ghen với trăng, màu trắng khinh cả bạc
Tiệc nhà Chu có rượu nhờ nó mà rót
Đũa nhà Hán không tính nhiều ít tha hồ xử phân
Bát liễn bằng đất sáng rõ đức kiệm nhà Đường
Từ nơi bến sông có thể làm nổi tiếng tài đức vua Thuấn
Tiếng kêu sang sảng là những bát chén không rạn nứt
Được ở yên còn phải đợi bàn tay con người lựa chỗ đặt

Dịch thơ
(Đỗ Văn Hỷ)
Bát Tràng
Khuôn nặn khoan chi tạo hóa quyền
Bạc ghen thua trắng, nguyệt ghen tròn
Tiệc Chu có rượu thày mời chuốc
Đũa Hán nào ai tính thiệt hơn
Bát đất, Đường Nghiêu gương chói sáng
Bến sông, Ngu Thuấn tiếng đồn vang
Lanh canh, bát vốn không tì vết
Xếp đặt tùy nơi lẻ liệu toan

_____________________________________________________

Bài 12
Bồi Đăng lưu đề (Nhất thủ)

Lịch thanh khai tịch chiếm quan hà
Công tại Nam thiên vĩnh bất ma
Chính phái phàn tong Viêm Hiệu thế
Đề phong lưu dữ đế vương gia
Hùng danh trường phó sơn xuyên ký
Thắng tích do truyền lý hạng ca
Di chỉ tức kim huy thái bái
Thuần bang mộc thạch hiện quang hoa

Dịch nghĩa
Lưu đề ở Bồi Đăng

Ra sức mở mang để chiếm lĩnh non song
Công lao tại trời Nam, mãi mãi chẳng mòn
Dòng chính chia ra từ đời Viêm Hiệu
Phong vực lưu lại cũng nhà đế vương
Tên tuổi anh hùng, mãi phó cho non song ghi chép
Di tích thắng cảnh, còn truyền trong lời ca xóm ngõ
Di chỉ đến nay vẫn rực cờ muôn vẻ
Gỗ đá cao rộng còn hiện lên vẻ rực rỡ

Dịch thơ
(Lâm Giang)
Lưu đề ở Bồi Đăng

Dốc tâm khai phá chiếm sơn hà
Công ở trời Nam mãi chẳng nhòa
Viêm Hiệu chia theo dòng chính phái
Đế vương lưu với cõi biên xa
Hùng danh phó núi sông ghi chép
Thắng tích truyền thôn xóm ngợi ca
Di chỉ đến nay cờ rực rỡ
Nhà thanh, gỗ đá hiện muôn hoa

  _____________________________________________________

Bài 13
Ký kiến

Thời thu đông chi giao, bách cốc tại điền, thiên khí thượng noãn, thảo mộc vị biến, bách tính văn xa giá xuất, giai bôn tẩu tụ quan đạo thiết thổ vật dĩ hiến, thả bái thả đảo. Uyển nhiên tê công đường xưng chùy quang chuy di phong.

Thanh án càn khôn cử đế tuần
Vũ mao đào xứ tổng hoan hân
Hòa ma lang lệ phong đăng dã
Cần bộc thiền liên dự trợ dân
Tục chất lư diêm tang thái cổ
Thổ phì thảo thụ chiếm trường xuân
Vi thần bồi hộ tàm vô trạng
Học tác phong thi bị thượng trần

Dịch nghĩa
Ghi những cảnh trông thấy

Khi giao tiết giữa thu và đông, các loại lúa còn ở ruộng, khí trời còn ấm áp, cỏ cây chưa thay đổi; trăm họ nghe xa giá nhà vua đều chạy ra xem. Dọc đường họ đặt những phẩm vật của địa phương để dâng, vừa lạy vừa cầu, hệt như cái di phong lên công đường dâng chén rượu chúc tụng.

Trời đất yên lặng nhà vua đi tuần du
Cờ vũ mao đến nơi nào, mọi người đều vui vẻ
Lúa gai bừa bộn ở ngoài đồng được mùa
Cần bộc nối tiếp nhau là những người dân được sự giúp đỡ
Phong tục chất phác làng xóm chứa đựng phong khí đời thái cổ
Đất màu mỡ cỏ cây chiếm vẻ xuân mãi mãi
Người bề tôi nhỏ mọn đi hộ giá thẹn không công trạng
Học làm thơ Quốc phong sẵn sang dâng lên

   _____________________________________________________

Bài 14
Sơn cư xuân mộ

Nhất thốc mao lư lĩnh cước thôn
Cáp phùng Thái Hiệu lão càn khôn
Sinh thanh li dục tang lâm lí
Cầm vận thiền tương thí động môn
Châu khỏa quán chi hoa dĩ tử
Ngọc trâm bảo thác trúc sơ tôn
Sơn gian phong nguyệt nhiêu thanh thú
Hảo cập thần du lạc phất huyên

Dịch nghĩa
Chiều xuân ở núi

Một dãy nhà tranh ở dưới thôn chân núi
Chợt gặp trời đất xưa của Thái Hiệu
Tiếng chim hoàng ly nấp trong rừng cây như tiếng sênh
Giọng ve râm ran ở cửa động như điệu đàn sắp dạo thử
Hoa đã kết quả giống trái châu xâu chuỗi trên cành
Trúc mới nẩy màu giống trâm ngọc ấp mo nang
Trăng gió trong khoảng núi tha hồ vui thú thanh tao
Vừa may gặp lúc nhà vua đi tuần du vui không thể quên

Dịch thơ
(Khương Hữu Dụng)
Chiều xuân ở núi

Một cụm lều tranh xóm núi đồi
Hiện lên trời đất thuở sơ khai
Oanh toan gõ phách rừng cây ẩn
Ve thử reo đàn cửa động chơi
Cành kết hạt châu hoa nẩy quả
Mo ôm trâm ngọc trúc đâm chồi
Gió trăng, trong núi đầy thanh thoát
May gặp thần du thú chẳng nguôi

_____________________________________________________

Bài 15
Tử Trầm hoài cổ

Dực tức danh sơn phỏng cổ tung
Mang mang tổng dĩ thuộc hồng mông
Thạch đài Đinh Lý luân đề kính
Động tỏa Trần Hồ cổ suy phong
Đại sĩ tàn bi hoa ảnh hạ
Thần y cố trạch điểu thanh trung
Duy dư thắng cảnh y nhiên tại
Trường vị hi triều hộ thủy cung

Dịch nghĩa
Hoài cổ núi Tử Trầm

Muốn đến danh sơn thăm dấu vết xưa
Mênh mông đều đã thuộc về cõi mịt mù
Đá đã mọc rêu trên lối xe ngựa triều Đinh, Lý
Động đã khóa kín luồng gió trống kèn thời Trần, Hồ
Tấm bia tàn đại sĩ đứng dưới bóng hoa
Nhà cũ thần y trong tiếng chim ca
Chỉ có thắng cảnh là vẫn y nguyên
Mãi mãi hộ vệ cung điện của triều thịnh trị

Dịch thơ
(Khương Hữu Dụng)
Hoài cổ núi Tử Trầm

Muốn đến danh sơn thăm dấu cũ
Mông lung mờ mịt thấy chi chi
Trần, Hồ động khóa hồi chuông trống
Đinh, Lý rêu mờ lối ngựa xe
Dưới bóng hoa, tàn bia đại sĩ
Trong lời chim, hiện cửa thần y
Chỉ nguyên cảnh đẹp thiên nhiên vẫn
Che chở hành cung buổi thịnh thì

 _____________________________________________________

Tin tức liên quan

Trở lại bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

logo-honinh-trang

Website honinh.com giới thiệu những giá trị lịch sử – văn hóa – xã hội giàu tính nhân văn, góp phần tôn vinh, chia sẻ những giá trị cao đẹp trong cộng đồng  dòng họ Ninh và những người quan tâm, đặc biệt là giới trẻ.

DANH MỤC

 All Right Reserved. Designed and Developed by honinh.com