Thôn Ninh Xá Hạ xưa gọi là Thiết Lâm (rừng Lim) ngay cạnh thôn La Xuyên.
Trước thời Cụ Ninh Hữu Hưng, đền thờ 2 vị Lương Bình Vương và An Nhu Vương (đều là tướng và con của vua Hùng). Sau khi Cụ Ninh Hữu Hưng mất, cụ được Triều đình vua Lý Thái Tổ cho phối thờ trong Đền. Cũng do truyền thuyết Cụ học được nhiều bí quyết nghề mộc từ cõi Diêm La nên Đền thờ cả Diêm La Vương. Như vậy, từ đó đến nay Đền thờ các vị:
1. Thiên tử Diêm La Vương
2. Lương Bình Vương (tướng và con vua Hùng)
3. An Nhu Vương (tướng và con vua Hùng)
4. Lão La Đại Thần
Nguyên trước kia đền cũ (còn gọi là “đền nhà vua”) ở gần cầu Tào hiện nay.
Năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712), Tào Nguyên Hầu Nguyễn Tất Khang cho dời đền lên vị trí hiện nay để tránh lụt lội.
Bên phải đền còn có Phủ Mẫu thờ Đại Lan Công chúa – người đã giúp Hai Bà Trưng chống nhà Hán.
Thần Phả trong đền được viết lại vào năm Tự Đức thứ 22 (1869) do Tri huyện huyện Đại An, An Giang Bá Lê Huy Phan viết vì Thần Phả cũ đã mất khi binh mã nhà Thanh tàn phá.
Theo truyền thuyết ghi trong Thần Phả:
Ninh Hữu Hưng sinh năm 936, quê tại thôn Chi Phong, tổng Trường An, huyện Gia Viễn.
Đinh Tiên Hoàng Đế dẹp được loạn 12 Sứ quân, thống nhất thiên hạ, lập nước Đại Cồ Việt, định đô tại Hoa Lư. Ông được giao phụ trách 6 phủ để xây dựng các cung điện tại Kinh đô Hoa Lư và vì vậy được phong chức Công tượng lục phủ giám sát đại tướng quân.
Sau khi đánh thắng quân Tống, Lê Đại Hành giao cho ông phụ trách xây các điện Bách Bảo Thiên Tuế, Phong Lưu Tử Hoa, . . . (Giáp Thân năm thứ 5 triều vua Lê Đại Hành).
Do có vũ dũng, ông được đi theo xa giá vua Lê Đại Hành. Ngày 24 tháng 4 năm Tân Mão (991), khi đỗ thuyền ở Thiết Lâm, vua Lê Đại Hành lên bờ ghé thăm đền thờ Lương Bình Vương và An Nhu Vương. Nhà vua thấy đền xiêu vẹo, hoang vắng bèn sai Ninh Hữu Hưng ở lại dốc sức tu sửa đền này và ngôi chùa gần đó sau được đặt tên là Phúc Lê Tự.
Từ đó, ông ở lại đất Thiết Lâm, lập ra trang ấp và dạy nghề mộc cho dân chúng. Công đức của ông rất sâu rộng.
Ông mất ngày 4 tháng 6 niên hiệu Thuận Thiên (năm Kỷ Mùi 1020) triều vua Lý Thái Tổ. Con cháu và dân trong vùng đem linh cữu ông xuống thuyền trở về Chi Phong, chôn ở chân núi Xương Bồ (phía đông nam thôn Chi Phong ngày nay) và tâu việc lên triều đình. Vua Lý Thái Tổ ban cho ông tôn hiệu là Lão La Đại Thần Tiên Sư và cho con cháu ông và dân chúng trong vùng được mang thần vị ông vào phối thờ dưới Lương Bình Vương và An Nhu Vương ngụ ý xem đều là công thần nhà nước. Đất Thiết Lâm cũng được đổi thành Ninh Xá với nghĩa là làng của người họ Ninh.
Đền làng Ninh Xá hiện còn lưu giữ 28 đạo sắc phong, trong đó:
– 11 đạo thời Lê, sớm nhất là vào niên hiệu Vĩnh Thọ (1660)
– 2 đạo thời Tây Sơn
– 13 đạo thời nhà Nguyễn
Trong số 28 đạo sắc phong còn lưu giữ thì chỉ còn giữ được 1 đạo sắc phong cho Lão La Đại Thần được ban ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) nguyên văn là:
“ Sắc Nam Định tỉnh, Phong Doanh huyện, Ninh Xá xã phụng sự Lão La Đại Thần tôn thần, hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng.
Tứ kim chính trị trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kính ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật. Trứ phong vi dực bảo trung hưng linh phù tôn thần chuẩn kỳ phụng sự.
Phùng kỳ tướng hựu, bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật”
Dịch nghĩa:
Sắc cho xã Ninh Xá, huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định phụng thờ Lão La Đại Thần Tôn Thần, giúp nước giúp dân, thiêng liêng rõ rệt.
Nhân nay trẫm tứ tuần đại khánh từng ban chiếu để rõ ơn trên, long trọng việc lễ đăng trật. Vậy phong cho là vị tôn thần thiêng liêng phò giúp cho nền trung hưng của quốc gia, cho phép phụng thờ (như cũ).
Mong thần che chở cho dân ta
Kính vậy thay!
Ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định năm thứ 9.
Nội dung chung chung nhu trên cho thấy sắc phong này được vua Khải Định ban theo lệ khi có đại lễ khánh tiết, không phải là đạo sắc do xét công trạng mà phong cấp lúc đầu. Điều này có nghĩa là trước đạo sắc này phải còn có những đạo sắc khác nữa mà nay không tìm thấy.
Trong đền còn có nhiều câu đối:
Quy viên cử phương, trí xảo do ư chưởng thượng
Chuẩn bình thẳng trực, hóa tài xuất tự trung hưng
Nghĩa là:
Khuôn mẫu vuông tròn, khéo léo từ tay đục chạm
Mực thước ngay thẳng, diệu kỳ do có suy lường
Sáng nghiệp tán huyền cơ, lẫm lẫm linh thanh hà nhạc tai
Hữu công lưu tự điển, hoàng hoàng chiếu sáng ngọc kim minh
Nghĩa là:
Dựng nghiệp giúp mưu hay, nổi tiếng thiêng liêng cùng sông núi
Công ghi sử sách, lưu danh chiếu sáng vẻ vàng son
Vọng thiện nhiêu ích trường viên quả
Thánh đế long sừng thiện niệm căn
Nghĩa là:
Chùa vọng thêm cho quả tu tròn trặn
Thánh vua cốt sao sự nghĩ tốt lành
Thụy khí nhân uân, mặc hộ Ninh hương nhân phồn vật phụ
Tường vân ái đại, âm phù Đại Việt quốc thái dân an
Nghĩa là:
Điềm hay phảng phất, lặng giúp làng Ninh người phồn vật thịnh
Mây lành quanh quất, âm phù Đại Việt quốc thái dân an
Hoàng Long quy động chương thần tích
Bạch mã đằng giang dực thánh công
Nghĩa là:
Rồng vàng về động, rõ dấu Thần
Ngựa trắng sang sông giúp nghiệp Thánh
Mộc tượng giáo dân nguyên hữu ý
Kiến đô lập quốc sử lưu công
Nghĩa là:
Dạy dân nghề mộc vốn có ý
Dựng đô, mở nước sử ghi công
Văn tế Lão La Đại Thần Tiên sư tại đền Ninh Xá nguyên văn như sau:
Khâm duy:
Tiên sư sơn nhạc trừ tinh, hải hà chung tú
Đắc tổ phụ truyền lai chi nghiệp, trì gia mộc tượng vi lương
Văn kinh thư sở huấn chi ngôn, xử thế hòa nhu chí quý
Hạnh nhi: Tiên Hoàng Hoa động xuất thân, lư kỳ khởi nghĩa
Thập nhị sứ thảo đầu sương tán
Vạn lý cương thống nhất dư đồ
Đắc thượng mệnh thi vi thủ nghệ, cấu tác cung tường
Kế Lê hoàng trọng vọng lương tài, anh uy viễn chấn
Hữu thời tòng giá đáo Thiết Lâm tu từ sở
Tự thử cư giang ban cần kiệm tác sinh nhai
Kí nhi dữ trợ lương tiền xu chi khẩn thổ
Hựu hữu lư kỳ sinh kế, giáo dĩ mộc công
Chấp tứ sơ lục, niên niên vĩnh niêm chung thường
Sơ chí quy thần, thế thế trường lưu hương hỏa
Phục nguyên đại thần hạ giáng, thánh tổ dao văn
Dực phù xã tắc điện an, hoàng đồ củng cố
Vạn gia lợi lạc hanh thông
Thiên lý nhân tài vượng phát
Lão thiếu hàm mông đại huệ
Hương thôn cộng mộc hồng hưu
Vạn vọng, cẩn cốc.
Nghĩa là:
Kính thay:
Tiên sư, tinh hoa non núi
Tú khí biển sông
Được cha ông truyền cho nghề nghiệp
Giữ nhà thợ mộc là hơn
Nghe sách kinh dạy bảo rõ ràng
Ở đời phải hòa mới quý
May sao, Tiên Hoàng cờ lau dấy nghĩa
Hoa động nương mình
Mười hai sứ quân sương trên ngọn cỏ, tan tác rã rời
Muôn ngàn dặm bờ cõi mở mang, dư đồ một mối
Được mệnh trên cho phép ra tay, dựng xây cung thất
Sau, Lê đế trọng dùng tài thực, nổi tiếng anh uy
Có khi theo phò giá Thiết Lâm, sửa sang đền sở
Từ đó ở bờ sông dựng nhà cửa, cần kiệm làm ăn
Rồi giúp cho dân có lương tiền, khuyên nên vỡ đất
Còn nghĩ dạy mọi người nghề mộc, kiếm kế sinh nhai.
Tháng Tư, mồng Sáu hàng năm nhớ mãi chung thường
Mới tới, về thần nối đời giữ gìn hương khói
Cúi trông:
Đại thần xét tới, Thánh tổ xa nghe
Phò cho xã tắc vững vàng, nghiệp vương củng cố
Nhà nhà nghề nghiệp yên vui
Ngàn dặm nhân tài vượng phát
Già, trẻ thảy nhờ ơn lớn
Xóm thôn đều đội phúc to
Muôn trông, cẩn cốc